Việt Nam có đến 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên dải đất hình chữ S. Trong đó mỗi một dân tộc lại sở hữu nền văn hóa truyền thống rất riêng, được xác định cần được bảo tồn và gìn giữ qua năm tháng. Với người Xơ Đăng cũng vậy, bên cạnh những hoạt động tín ngưỡng thì họ còn khiến chúng ta phải bất ngờ trước những bộ trang phục truyền thống bắt mắt. Vậy có bao giờ bạn tò mò về trang phục truyền thống của người Xơ Đăng sẽ trông như thế nào không? Nếu có thì hãy đọc ngay một số phân tích ngắn gọn có trong bài viết này nhé.
Địa bàn sinh sống và tập quán sinh hoạt của người Xơ Đăng
Xơ Đăng là tộc người thiểu số gồm 5 nhóm địa phương chính: Xơ Teng, Tơ Đrá, Mơ Nâm, Ca Dong và Hà Lăng. Họ cư trú tập trung ở các huyện Đắk Tô, Sa Thầy, Đắk Glây, Kon Plông, Ngọc Hồi, Đắk Hà (tỉnh Kon Tum), huyện Sơn Hà (tỉnh Quảng Ngãi), huyện Bắc Trà My, Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam), huyện Cư M’gar, Krông Pắk (tỉnh Đắk Lắk).
Người Xơ Đăng chủ yếu làm rẫy, trồng một số loại cây lương thực. Họ cũng nuôi gia súc, gia cầm, hái lượm, đánh bắt cá… Ngoài ra đồng bào Xơ Đăng còn có nghề đan lát, dệt, nghề rèn rất phát triển. Người Xơ Đăng sống gần gũi với thiên nhiên. Bởi vậy nên trong đời sống tâm linh; họ thờ nhiều vị thần liên quan đến sản xuất và sinh hoạt.
Trong đời sống, đồng bào Xơ Đăng hiện vẫn lưu giữ nhiều phong tục, tập quán và lễ hội truyền thống. Về âm nhạc, người Xơ Đăng có kho tàng đồ sộ với các loại hình nghệ thuật dân gian như múa, hát, âm nhạc. Những dịp lễ hội, Tết, đồng bào Xơ Đăng thường diễn xướng cồng chiêng và kể những câu chuyện sử thi về dân tộc mình cũng như về cội nguồn của vùng đất Tây Nguyên. Dân tộc Xơ Đăng cũng nổi tiếng về nhiều loại nhạc cụ được làm từ các ống tre, nứa như đàn gong, đàn t’rưng, sáo, klong put…
Một số điểm nổi bật trong trang phục của người Xơ Đăng
Trước tiên chúng ta cần nói qua nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Xơ Đăng. Chiếc khung cửi của họ cũng giống khung dệt của dân tộc khác ở Tây Nguyên. Họ chủ yếu dệt vải khổ hẹp từ 30 – 40cm. Có khi họ cũng dệt khổ vải rộng tới 80cm. Nhờ nghề dệt, người Xơ Đăng vẫn giữ được các loại hình trang phục với những nét đặc trưng theo từng nhóm địa phương. Các dân tộc khác ở Tây Nguyên thường sử dụng màu đen và màu chàm. Còn màu chủ đạo trên trang phục người Xơ Đăng là màu chàm. Hoa văn trên trang phục chủ yếu được trang trí xung quanh áo, váy.
Trang phục của nữ giới người Xơ Đăng
Trang phục truyền thống của phụ nữ gồm áo, váy, tấm choàng (khăn vai) và địu em bé. Áo là kiểu áo chui đầu, không có tay. Tấm choàng hay còn gọi là khăn vai được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau. Các thiếu nữ Xơ Đăng đến tuổi trưởng thành thường dùng tấm choàng khoác qua người. Nó như một dấu hiệu cho những chàng trai biết mình chưa xây dựng gia đình để có thể trò chuyện, tìm hiểu. Khi về nhà chồng, người con gái mang theo tấm choàng. Họ giữ gìn như một vật kỷ niệm quý giá của thời con gái. Tấm choàng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau.
Để có tấm choàng, họ dệt 2 tấm vải sau đó ghép lại. Trên mặt phải của tấm choàng được trang trí hoa văn hình quả trám. Xen kẽ vào tấm choàng là các dải màu đen, trắng, đỏ. Để tô điểm thêm, người Xơ Đăng còn sử dụng các loại hình trang sức. Ví dụ như vòng đồng, vòng bạc, chuỗi hạt cườm, đặc biệt là các loại trang sức cổ xưa như nanh, vuốt thú…
Trang phục truyền thống của nam giới Xơ Đăng
Đàn ông Xơ Đăng thường đóng khố, cởi trần. Khố là một tấm vải dài, khổ hẹp luồn qua háng, quấn quanh thắt lưng. Đàn ông sẽ thả hai đầu buông dài trước và sau đến gần cổ chân. Trong các lễ hội, người đàn ông thường quấn chéo thêm một tấm vải trên ngực. Ta nhìn vào sẽ trông họ như một chiến binh đang ra trận.
Có thể nói rằng, trang phục truyền thống của người Xơ Đăng là loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu. Chúng phong phú, đa dạng về loại hình, sản phẩm, có giá trị thẩm mỹ với những đường nét hoa văn, sắc màu độc đáo mang nét đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên. Dù cuộc sống có nhiều biến đổi, đời sống phát triển, người Xơ Đăng có nhiều lựa chọn để may, mặc các bộ trang phục khác.
Tuy nhiên trong các dịp lễ hội, họ vẫn khoác trên mình những bộ trang phục truyền thống. Mục đích là để giữ gìn nét văn hóa và bản sắc của dân tộc mình. Đây cũng chính là dịp để cộng đồng bà con ôn lại những phong tục tập quán truyền thống của ông cha ngày xưa, khôi phục và duy trì những nét đẹp văn hóa, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; đồng thời quảng bá hình ảnh, vốn sống văn hóa phong phú của dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.